Thứ Năm, 7 tháng 9, 2017

TRỞ LẠI C2

Xin Hãy Yên Giấc Nghìn Thu


Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn
                    (Chinh Phụ Ngâm)
Bốn mươi hai năm qua, sự tàn khốc tang thương của chiến tranh đã nhạt nhòa cùng năm tháng. Ngày ấy, có nhiều người đã nằm xuống, đa số ở lứa tuổi đôi mươi – lứa tuổi đẹp nhất đời người, và rồi cùng với vận nước nổi trôi, họ đã bị lãng quên trong hoang lạnh tiêu điều một thời gian dài, rất dài...

Chúng tôi trở lại khu C2 NTQĐ BH trong dịp vừa hoàn thành việc xây lại 95 ngôi mộ tại đây, cũng trùng dịp rằm tháng 7, một mùa rằm lớn trong năm theo tâm linh người Việt. Lòng thành tâm của chúng tôi có lẽ cũng thấu đến đất trời và các anh linh các tử sĩ, nên thời tiết hôm nay thật là lý tưởng: nắng nhẹ, gió nhẹ, những vòm cây đong đưa với tiếng lá rì rào trong gió dường như không còn u uẩn như mọi khi.

Người nằm đó nghìn thu an giấc.
Trong gió đùa, vọng tiếng quân ca.


Đầu tiên, chúng tôi sửa một lễ tạ chung tại Nghĩa Dũng Đài, sau đó là lễ tại khu C2, gọi là có chút lòng thành để mời các anh, các chú, các chị, các dì (xin lưu ý rằng tại NTQĐ Biên Hòa có cả các nữ quân nhân) về nhà mới. Mỗi người một việc không ai bảo ai, túa ra các ngôi mộ tinh tươm màu vôi trắng, kẻ đốt nhang, người thắp nến, cả một góc nghĩa trang vốn u tịch hôm nay bỗng tươi tắn màu hoa vàng, lung linh trong ánh nến hồng.


Dâng hương tại Nghĩa Dũng Đài


Mời các ANH về nhà mới



C2 Niềm Vui Ngày Trở Lại

TRƯỚC
SAU

TRƯỚC
SAU

TRƯỚC


SAU

TRƯỚC
SAU

Tuy vậy, niềm vui không trọn vẹn, vì khu C2 vẫn còn sót lại 29 ngôi chưa được xây, do quyên góp đợt này không đủ. Nhìn những tấm bia nằm vật vã trên những ụ đất, thật là “nỗi niềm tưởng đến mà đau…” (Nguyễn Du). Ngoài ra một số mộ do rêu phong quá cũ kỹ cũng cần phải sơn phết lại. Thôi thì đành tạ lỗi cùng các anh các chú, xin khất lại đợt sau.


Chúng Tôi Sẽ Trở Lại, Phải Trở Lại


Dẫu biết rằng dù có bia đá khắc tên hay không mộ chí thì cũng chỉ là hư không, cũng chỉ là cát bụi, lần nào cũng vậy, cám cảnh khi đứng trước những nấm mộ hoang tàn như miêu tả của cụ Tiên Điền:
Sè sè nấm đất bên đường,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Nhưng tôi vẫn không khỏi không cảm thấy bần thần bùi ngùi với những suy nghĩ miên man: người này hẳn cũng đã từng có lúc được mẹ ru, được cha vỗ về, cũng đã từng có anh em, cũng đã từng mày tao chi tớ với bạn bè, có thể cũng đã từng cùng người tình dạo quanh phố vui… Những người ấy nay đâu? Anh là ai? Có còn ai nhớ đến anh, nhắc đến tên anh?


ANH LÀ AI?

Chúng tôi cũng rất vui khi đã nhận được sự đồng cảm và ủng hộ thiết thực từ cả những người không hề quen biết, hẳn ở nơi nào đó vong linh các anh các chú cũng cảm thấy ấm áp!
Chúng tôi mong muốn sẽ đủ sức khỏe về thể chất cũng như tinh thần để tiếp tục thực hiện chương trình Hãy Yên Giấc Ngàn Thu, với và chỉ với những cảm xúc tận đáy lòng của người sau với người trước, của người còn sống với người đã khuất, của những người cùng dòng máu Mẹ Việt Nam lầm than khốn khổ.



Tháng 9/2017

Thứ Bảy, 19 tháng 8, 2017

RÊU XANH TRÊN BIA ĐÁ

VIỆT KIỀU NGANG HÔNG!
Chúng tôi trở lại Nghĩa trang Bình An (Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa - NTQĐBH) để giám sát hợp đồng thi công đã ký lần trước. Lần này khi khai báo mục đích chuyến đi - trình hợp đồng các thứ với nhân viên đại diện ban quản lý Nghĩa trang, tôi mới để ý thấy có cả camera quan sát, gương mặt nhơn nhơn của tôi thì dĩ nhiên là chình ình một đống rồi, tôi chỉ thắc mắc không biết lúc ông thần Nghĩa vừa xuống xe đã phi thẳng vào "Wa sinh tơn xi ti" (WC) có được ghi hình vì hành động đáng ngờ này không!
Viên quản lý vừa cắm cúi xem xét bản hợp đồng tôi xuất trình, vừa cặm cụi ghi thông tin vô sổ bìa...xanh (may quá!), sau đó hỏi bằng giọng nhừa nhựa hỏi thằng tôi mà không thèm nhìn: Việt kiều hả?
Kịp lúc Nghĩa phóng ra mau mắn trả lời: Không! Thằng này nó ở đây chứ kiều kiếc gì!
Cha nội kia nghếch mắt nhìn tôi có vẻ nghi ngờ lung lắm, chắc là đang nghĩ sao lại có cái đám... khùng nào ở đây mà làm mấy chuyện gọi là nhạy cảm thế này!



N.Q.Đôn và N.H.Nghĩa tại khu vực Ban quản lý Nghĩa trang

LÔ C2
Trở lại mục đích chuyến kiểm tra việc thực hiện trùng tu lô C2, chạy đến nơi này tôi hơi bực bội vì mọi thứ còn y xì như cũ chưa thấy động đậy gì, gọi tay "chủ xị" đến , thì hắn cam đoan như đinh đóng cột là sẽ đảm bảo đúng hợp đồng. Cũng không bắt bẻ được, vì thời hạn kết thúc hợp đồng chưa đến, đành vỗ vai ngọt nhạt khích lệ vài câu đồng thời cũng yêu cầu làm thêm 25 ngôi nữa từ số tiền mới nhận thêm của các thân hữu.

L.T. Vinh và N.H Nghĩa đang trao đổi với người phụ trách thi công xây mộ
Do lần trước hơi vội nên chụp hình chưa kỹ lắm, lần này tôi quyết định chụp kỹ càng hơn. Bước qua những hàng mộ cái còn cái mất, cái xô lệch, đa số bia mộ không còn. Có những ngôi chỉ còn hơi u lên khỏi mặt đất, nhìn kỹ mới thấy, do đó nhìn trong hình chụp càng khó nhận ra đâu là mộ phần.

Có những ngôi mộ khó lòng nhận ra trên hình chụp và ngay cả trên thực tế
Thực tình không biết hai đốm sáng lóe kia là gì!
Không biết ai đã có công xếp mấy cục đá lên để đánh dấu mộ phần, có chỗ thì bằng vài viên gạch lỗ, vừa là chỗ cắm nhang. Đặc biệt có ngôi mộ gây ấn tượng mạnh vì những viên đá được xếp đặt trên đầu mộ giống như một tiểu cảnh sân vườn!

Anh là ai?

Rêu phong trên bia đá (nếu có thể gọi đây là bia mộ!)


Loanh quanh trong những hàng mộ hoang, thi thoảng có những cơn gió nhẹ lạnh buốt, tôi cảm thấy đầu óc hơi lơ mơ choáng váng, chợt nghĩ giờ đang là tháng bảy, hay là những người khuất mặt đang lẩn khuất đâu đây xem coi mấy đứa này là đứa nào mà lọ mọ ở đây làm gì?!
Tự nhiên tôi cứ bần thần cố hình dung ra những người đang nằm dưới vài tấc đất này vào lúc họ còn nói năng - khóc cười - yêu ghét - giận hờn, họ đã sống ra sao, người thân bạn bè họ ở đâu... giờ đây chỉ còn lại một mộ phần hoang lạnh, thậm chí không tên không tuổi.
Tối hôm đó, những suy nghĩ lẩn thẩn này cũng vẫn đeo bám tôi, trằn trọc mãi mới nặng nhọc chìm vào giấc ngủ văng vẳng giọng ca Elvis Phương qua nhạc phẩm Rồi Có Một Ngày của Hoàng Thi Thơ:
...Rồi có một ngày, một ngày rêu xanh trên bia đá 
Tím ngát không gian mây trời gọi gió mưa nhòa 
Mộ vắng đường dài chẳng còn ai qua lại 
Chẳng còn chẳng còn nhang, còn khói, 
Xót xa cũng buồn tháng ngày trôi...

Dù sao anh cũng còn có tên!
KHU E
Sắp xếp công việc ở lô C2 xong, tiện bước chúng tôi đảo qua khu E gần đó "thám thính tình hình" mặc cho vài đôi mắt đang lặng lẽ dõi theo. Qua tìm hiểu thông tin từ người phụ trách xây dựng ở đây (cũng là người đang phụ trách việc xây dựng cho lô C2) thì được biết khu E đã được thực hiện hoàn chỉnh, và do một Việt kiều ở Virginia là bà P.M Thủy chủ trì thực hiện trong suốt một thời gian cũng khá dài, lần lượt từ E5, E4, E3, E2. Đến  E1 do bà không còn đủ sức khỏe nên con bà là L.M Nhật tiếp tục đứng ra thực hiện, và đã hoàn thành hai tháng trước đây! Việc này thật là quý hóa, cầu chúc gia đình bà được an lành! (Sở dĩ ghi tắt là vì e rằng chưa được phép của 2 người này).

Loạt hình dưới đây cho thấy khu E đã hoàn chỉnh 100%




Từ khu E này mà chúng tôi có ý nguyện sau khi hoàn thành lô C2, sẽ thực hiện tiếp tục cho lô C3, C4, C5. Đặc biệt lô C5 còn nguyên vẹn 100%... đổ nát (theo con số ban quản trang cho biết vào khoảng 450 ngôi!) Đến khi hòan tất toàn khu C, và nếu không có gì trở ngại thì chúng tôi sẽ lại gồng mình hô hào kêu gọi để chúng ta có thể góp sức cùng các hội đoàn khác phủ kín mộ xây cho toàn bộ NTQĐ, việc này cũng phải mất vài năm, làm được tới đâu hay tới đó!

Thứ Ba, 25 tháng 4, 2017

HỒN XÁC XÂY THÀNH, THỜI GIAN LUỐNG VÔ TÌNH

Tôi hằng có ý định đi đến Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa (nay gọi là Nghĩa Trang Nhân Dân Bình An), nhưng rồi cứ lần lữa do công kia việc nọ mãi không đi được! Hồi cuối năm có thằng bạn thân dẫn cả gia đình vợ con đi đến nơi này (mặc dù hắn không có người thân nào nằm ở đây) chỉ với mục đích dạy cho con hắn biết một phần lịch sử điêu linh của dân tộc. Tên này hồi nhỏ làm văn cũng khá giỏi, nên khi nghe hắn kể lại thì thằng kể cũng rưng rưng, thằng nghe cũng bùi ngùi.
Dẫu biết là sau mấy chục năm thì thương hải biến vi tang điền, vật đổi sao dời, và dù cũng đã nghe kể qua về tình trạng thực tế, nhưng khi đến nơi tôi cũng không khỏi ngỡ ngàng, nếu không đi cùng với Đôn Đài (gã này tên Đôn làm Đài truyền hình) lên viếng anh Hồng - anh ruột gã, chắc chắn tôi cũng không tìm ra đường vào.

NTQĐBH trước đây được thiết kế rất chỉnh chu, và nếu nói theo ngôn ngữ bây giờ là rất "hoành tráng", đây chắc có lẽ là loại thiết kế công trình nghĩa trang đầu tiên ở Việt Nam. Đã có nhiều bài viết về nghĩa trang lịch sử này, chỉ xin tóm tắt một số điểm chính theo ký ức của lần tiễn đưa chú Tường năm 1973 - một người chú họ của thằng tôi:

Ngồi trên chiếc GMC, xa xa tôi đã thấy ngôi đền tử sĩ trên một ngọn đồi với nhiều bậc cấp như con rồng uốn khúc dẫn xuống cổng tam quan. Trên con đường nhỏ dẫn thẳng từ xa lộ Biên Hòa vào, chiếc xe tang chầm chậm lăn bánh giữa hai bên là ruộng nước, cảnh tượng đẹp tê tái nghẹn ngào!


Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa trước năm 1975 nhìn từ xa lộ (nguồn Internet)

Hiện nay cạp đất mà ăn là xu hướng thời thượng! Cho nên khung cảnh này chỉ còn trong hoài niệm, khu vực này được che phủ hoàn toàn bởi nhà cửa, kho xưởng các loại. Một thời gian dài nghĩa trang này được giao cho bộ đội quản lý, nội bất xuất ngoại bất nhập, chỉ có những con bò do bộ đội nuôi tăng gia thơ thẩn kiếm ăn trong khuôn viên nghĩa trang, vì thế mọi thứ đều hoang hóa, xuống cấp tiêu điều. Đến khoảng giữa thập niên 90 do chính sách thay đổi, nghĩa trang được giao về cho dân sự quản lý và bắt đầu cho phép thân nhân vào thăm viếng tu sửa cải táng v...v...


Hình Cổng Tam Quan lên Đền Tử Sĩ trước năm 1975 và năm 2011 (nguồn Internet)

Cổng Tam Quan hiện nay 2017 cũng giống hình này (nguồn Internet).

Cổng tam quan nay đã được dọn dẹp không đến nỗi tàn tạ như hình chụp năm 2011 trên đây, tuy nhiên thường có những xe tải, xe công ten nơ đậu che phía trước, muốn đi vào cũng hơi khó. Mặt khác, chính quyền đã mở một cổng vào khác phải và đi vòng một đoạn cũng khá xa. Do trở ngại này tôi cũng chưa vào đến trong Đền Tử Sĩ, cho nên cũng chưa tận mục sở thị xem thế nào, theo một bức hình trên Internet chụp năm 2016 thì các bậc cấp dẫn lên Đền Tử Sĩ cũng đã được khai quang.


Bậc cấp dẫn lên Đền Tử Sĩ (trước năm 1975 - nguồn Internet)

Bậc cấp dẫn lên Đền Tử Sĩ (hình chụp năm 2016 - nguồn Internet)


Cổng vào hiện tại của NTND Bình An nằm bên hông cách khá xa so với cổng tam quan xưa

Trích dẫn một đoạn mô tả về NTQĐ:
"...Trên nền đất phẳng, Công Binh cho đổ 10,000 thước khối đất làm thành một ngọn đồi nhân tạo. Ðại đội xe “benne” phải làm việc gần hai tháng.
Trên ngọn đồi nhỏ này, Công Binh xây bệ tròn, chính giữa là ngọn kiếm hướng mũi lên trời. Cây kiếm có thân bốn cánh hình chữ thập cao 43 thước. Chân của chữ thập đường kính 6 thước rưỡi và trên mũi nhọn là ba thước rưỡi, có bậc thang để leo lên đỉnh và đứng trên này sẽ nhìn thấy thành phố Sài Gòn.
Cây kiếm đúc bằng ciment cốt sắt từng tảng chồng lên nhau chịu được sức gió trên 120km/giờ. Phía dưới bệ đài xây ciment vòng chung quanh thành một vành khăn được gọi tên rất xúc động là Vành Khăn Tang. Trên Vành Khăn này dự trù sẽ có các công trình điêu khắc về các chiến công của Quân Ðội Việt Nam qua các thời đại..."
(nguồn: https://ongvove.wordpress.com/2015/05/01/nghia-trang-quan-doi-bien-hoa-chuyen-ke-tu-dau/)

Qua mấy mươi năm không được bảo quản mà Nghĩa Dũng Đài với vành khăn tang và thanh kiếm vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, nhưng biểu tượng thanh kiếm đã bị cắt cụt bớt ngọn. Méo mó nghề nghiệp một chút: hồi xưa mấy ông công binh không biết làm kiểu gì mà công trình bền vững kinh khủng!

Phía sau là Nghĩa Dũng Đài với biểu tượng Thanh Kiếm Và Vành Khăn Tang

Vòng quanh thắp hương giữa các ngôi mộ và ngó ngang ngó dọc một hồi với nhiều cảm xúc lẫn lộn, có một điểm chung là đa số những người nằm xuống đều ở độ tuổi rất trẻ, lứa tuổi 20-22 phơi phới căng tràn sức sống với bao hoài bão ước mơ nhưng tất cả đều chịu chung số phận nghiệt ngã bi thảm của dân tộc.
Những ngôi mộ được xây lại chăm sóc tươm tất như mộ anh Hồng; chú Tường... thì không nói làm gì, vẫn biết xác thân chỉ là cát bụi, nhưng dù sao thì họ cũng yên nghỉ trong sự tưởng nhớ chăm sóc của người thân, chắc họ cũng an nhiên tự tại thanh thản ở thế giới bên kia, nếu có!

Mộ anh Hồng (anh của Quý Đôn) - tử trận  năm 1974

Mộ chú Tường - tử trận năm 1973

Một số ngôi mộ gần đây do các tổ chức quyên góp, được tu sửa, xây mới bằng gạch, trát vữa quét vôi trắng đơn giản thôi nhưng cũng giảm phần cô quạnh hắt hiu. Cũng có những dãy mộ chỉ được vun đắp có lẽ do nguồn đóng góp không được dồi dào.

Quý Đôn thắp hương cho cho các ngôi mộ đã được xây lại do các tổ chức cá nhân thiện nguyện

Bao oan khiên đang về đây hú với gió (chỉ có một số ít ngôi mộ này có bia mộ)

Bát nhang "chế" từ nửa viên gạch đinh

Tuy vậy còn rất nhiều các nấm đất hoang tàn, có nấm còn bia, có nấm mất hẳn bia, có nấm đã gần như sạt bằng với mặt đất, ta chỉ còn có thể đoán chừng được do vị trí hàng lối của chỗ đất đó mà thôi!

Những nấm đất đá không bia mộ

Bia khong mộ, mộ không bia


Đặc biệt có một ngôi mộ ghi tên người lính Lê Văn Trên làm tôi hết sức xúc động, ngôi mộ này được đắp bằng những cục đá xanh và cũng quét vôi lên từng viên đá, mộ bia cũ được dựng ngay ngắn, tấm hình có lẽ lấy từ một tấm hình chụp tập thể phóng ra lại thêm tác động của mấy chục năm hoang phế nên hơi nhòe. Ngắm bia mộ, tôi chạnh nghĩ có thể hẳn người thân cũng muốn chăm sóc nhưng do hoàn cảnh nên không thể làm gì khác hơn. Thôi thế chắc hẳn anh cũng ấm lòng!

Mộ đá của tử sĩ Lê Văn Trên kế bên có một nấm đất với tấm bia gẫy ngang

Số lượng mộ chưa xây còn rất nhiều, đa số rơi vào khu vực chôn cất năm 1974-1975, chắc có lẽ thời gian này là thời gian mà chiến cuộc đã đi đến hồi kết nên chính quyền lúc bấy giờ không kịp thực hiện. Cho tới nay nhiều tổ chức - cá nhân ở quốc nội, quốc ngoại đã đứng ra thực hiện công việc bồi đắp tu bổ nhưng cũng chưa thể làm hết toàn bộ. Theo phía quản lý nghĩa trang thì còn vài ngàn mộ như vậy, và chính sách hiện nay là tạo điều kiện và khuyến khích để mọi người có thể chung tay tu bổ cho các ngôi mộ trong NTQĐ.
Mượn vài câu thơ của thi sĩ Thanh Nam thay lời kết:
..Ta như người lính thua trận
Nằm giữa sa trường nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bờ
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn, truy điệu mộng xưa…

Chiều Sài Gòn, tháng 4/2017









Thứ Năm, 13 tháng 4, 2017

NHỮNG THÁNG NGÀY CẰN CỖI II

Như đã nói ở phần I, trong một thời gian tương đối dài cả nhà phải lăn lóc đủ các loại hình lao động để tồn tại cho qua quãng thời gian được gọi là “khó khăn chung của cả nước”. Ừ thì đúng là khó khăn chung, thời đó thì ai cũng nghèo ai cũng khổ, chỉ có cái là những gia đình thuộc thành phần thứ cấp như gia đình chúng tôi thì khổ hơn...vài tí, vừa rồi gặp mấy thằng bạn cùng hoàn cảnh (mà hồi đó không biết) nhắc lại nhiều kỷ niệm, thằng nào cũng có thể đưa ra một vài chi tiết giống nhau về "bản chất sự vụ": nào là phải vừa đi học vừa sửa xe đầu đường (may là chưa bị chuyển hóa thành đầu đường xó chợ), nào là nhất y nhất quởn, độc một cái áo từ đầu mùa tới cuối mùa, áo vải tetron (tê ta rông) mặc tới nỗi mỏng le mỏng lét giống như mốt khoe da thịt thời nay, màu áo thì dĩ nhiên không thể gọi là màu trắng được rồi!

Bốc vác

Thời bấy giờ nguyên liệu phổ biến nhất cùng cho đun nấu là củi, nhà nào dùng than đã gọi là sang, dùng dầu hôi thì quá sang luôn! Dọc đường Phạm Văn Hai khu tôi ở có rất nhiều vựa than; vựa củi như vậy, sáng sáng cỡ 5 giờ, các xe tải chở củi hoặc than về tới, những thứ này sẽ cần phải được chuyển xuống chất vào trong vựa! Than nhẹ hơn lại không bị xóc dằm như củi nên hôm nào bốc xe than thì khỏe mà lại được tiền nhiều hơn.
Một lũ lau nhau lớn nhỏ từ tinh mơ đã ngồi chò hõ ngoài đường, mắt dõi về phía cuối đường trông chừng xem có xe xuất hiện là bu tới nhao nhao giơ tay xin làm. Củi được quăng từ trên xe xuống, thằng nào đứng dưới thì có nhiệm vụ chộp và chuyền vào trong, nói là chuyền chứ cũng phải quăng từ thằng này qua thằng kia. Chuyển một xe như vậy cỡ trên dưới 1h30 phút gì đó, tôi cũng không nhớ rõ, chia ra bình quân mỗi thằng được 10 xu, thời giá lúc bấy giờ tôi nhớ lương giáo viên cỡ 30 đồng/ tháng. Ngày đầu tiên làm, buổi chiều đi học không nổi! Hai cánh tay và bàn tay trầy trụa hết. Mãi rồi cũng quen! Tôi thì nhìn tướng tá thư sinh trắng trẻo nên thường phải theo thằng nào trông trâu bò một tí thì mới xin làm được.
Có lần, một thằng bạn được một ông chủ hàng bốc theo xe mấy ngày, về nó kể nghe bắt thèm: nào là ổng cho uống nước đá chanh thoải mái, ăn bánh mì thịt…Khà khà, thế hệ sau này nghe chắc không thể hiểu những thứ đó là cực kỳ xa xỉ lúc bấy giờ.

Mây tre lá

Nhà nhà đan mây tre, người người đan mây tre, có một thời gian như thế! “Hưởng ứng phong trào” tôi với con em gái cũng đi xin người ta cho làm, nào là đi vác tre trúc về cạo vỏ, nào là ngồi khoanh mấy cái đế tròn tròn đủ loại kích cỡ, yêu cầu phải khoanh sao cho chặt, không đạt thì sẽ bị trả về làm lại gọi là “tái chế”. Đế này sau khi nghiệm thu đạt, lại nhận về làm công đoạn đan lát khácCông đoạn nào cũng làm sưng tay mờ mắt, mà thu nhập cũng chả được bao nhiêu. Còn nhớ cái vụ cạo trúc, cạo mãi không xong cái đống trúc nhận về, thế là anh em lếch thếch vác đi trả, vừa đi vừa ca liên khúc... nghèo chắc hay hơn Trường Vũ nhiều!

Làm...phim

Công việc này không dính líu gì tới đóng phim mà là mua phim nhựa cũ về cắt ra, chập hai miếng lại với nhau, ở giữa lót miếng giấy trắng cho nó ửng màu phim lên rồi dùng dây cước kết lại thành túi xách, ví đầm hoặc đại loại các thứ tương tự. làm cái này thì phải lựa phim sao cho khi lót giấy vào nó ửng màu lên đẹp. Phim của Mỹ dầy hơn nhưng màu không tươi bằng phim Hong Kong, nên thường dùng làm các lớp lót bên trong hoặc bên hông. Phim xấu (màu tối hoặc đen trắng) nhiều quá thì lại chế ra cách ngâm phim trong sud cho trong veo rồi lót bên trong bằng các loại giấy màu xanh xanh đỏ đỏ cho em nhỏ nó mừng, rồi lại lấy xút vẽ lên phim để tẩy theo ý muốn thành những chữ như LOVE, SOUVENIR...và lót giấy bạc bao thuốc lá bên trong cho bắt mắt, đẹp nhất là nền phim đen chữ thì nổi bần bật bằng màu giấy bạc từ bao Dunhill. Nghề này tương đối nhàn, lại cũng có tí chút hơi hướng mỹ thuật nên làm cũng vui. Ông bô ngoài giờ dạy học cũng đảm trách vai thợ chính kết các mảnh phim thành sản phẩm hoàn chỉnh. Thế, cũng lây lất một thời gian.

Tôi học thợ mộc

Xác định trước không có cửa vào Đại Học, rồi tình cảnh nhà lúc bấy giờ còn te tua xơ mướp hơn cả trong những truyện ngắn của Nam Cao. Tôi còn nhớ một buổi chiều trên...bến cô liêu, hic, gọi vậy vì bữa đó trời mưa nước ngập vô nhà, cả nhà đang ngồi trên chiếc đi văng, điện thì cúp, 5g chiều chưa có gạo để nấu cơm..., thảm còn hơn giáo Thứ! Bỗng có tiếng bì bõm lội nước, chú Phong - một người bạn của bố xách gạo tới cho, đoạn này coi bộ kết thúc có hậu hơn giáo Thứ!

1978 có thể coi như một bước ngoặt khá lớn (sau này tôi còn vài cái ngoặt cũng không kém phần ngoạn mục), tôi giã từ môi trường phổ thông để vào trung học chuyên nghiệp, nói nôm na là nghỉ học chữ đi học nghề, tuy rằng trường này - Trường TH Kỹ Thuật Công Nghiệp Thành Phố - cũng thuộc loại bảnh, trước năm 1975 là trường kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ, cũng "xêm xêm" trường Cao Thắng. Năm tôi thi vào cũng phải xếp hàng lấy đơn từ 3, 4 giờ sáng. Mục đích chính là có 16 đồng học bổng hàng tháng và các tiêu chuẩn khác kèm theo như thịt thà cá mú các loại, như một công nhân viên, dường như sau đó được lên 21 đồng thì phải! Nguyện vọng vào ban sơn mài nhưng năm ấy lại dẹp bỏ ban này cho nên tôi được xếp vào ban Kỹ nghệ gỗ, ban này hồi đó thường học sinh chê dữ lắm vì không ngon không bảnh bằng các ban khác như cơ khí ô tô, máy công cụ (phay, bào, tiện...). Còn nhớ có thằng khi được thông báo vào ban Kỹ Nghệ Gỗ, đã khóc tu tu, rồi xin nghỉ. Miễn là có mấy cái khoản nói trên, thì với tôi ban nào cũng được! À một số thằng cũng vào trường chỉ với mục đích trốn nghĩa vụ nữa chớ, mấy năm đó quân "tình nguyện" của ta nướng bên Campuchia cũng bộn!
Môi trường phổ thông và môi trường kỹ thuật khác nhau hoàn toàn, khác từ người thầy người cô, khác từ môi trường, nó không còn hồn nhiên trong sáng như ở trường phổ thông, mà đã mang hơi hướng ma mãnh của cuộc đời. Tôi còn nhớ một vị thầy đáng kính (nhìn tướng là biết dáng của mấy ông giáo sư ngày xưa) có nói một câu: thầy cũng có năm bẩy loại thầy các anh ạ!
Chuyện dài chinh chiến về thời gian ba năm rưỡi học kỹ thuật, chắc phải cho thành một bài khác.
Học đến năm 1982 ra trường, cầm mảnh bằng Cán Sự Trung Cấp, tôi về một xí nghiệp, bắt đầu một đoạn đời mới với những ngày làm cu li bốc xếp chính cống!

Thứ Hai, 30 tháng 1, 2017

MỪNG ĐẢNG MỪNG XUÂN

Nhân thấy tấm pa-nô trên đường phố có nội dung “MỪNG ĐẢNG MỪNG XUÂN”, tự nhiên suy nghĩ lung tung. Câu này thực ra có tự bao giờ chắc cũng chẳng ai để ý, và cũng chả có ai dở hơi thắc mắc tại sao lại như vậy, nó như muôn vàn khẩu hiệu khác được hô lên ầm ĩ nhưng cũng như nước đổ lá môn trôi toẹt đi ngay, chả dính lại tí ti ông cụ nào ở cái nếp nhăn nào đó trong sọ não.

Nhân những ngày nhàn rỗi đầu năm con gà 2017, rảnh rỗi sinh nông nổi; bàn chuyện phiếm; “khai đao” chém gió mua vui cùng nàng Xuân!

Mừng Đảng thì rõ rồi, mừng Xuân cũng không có gì khó hiểu, nhưng chỉ có cái hơi lăn tăn là tại sao lại mừng Đảng mừng Xuân mà không là mừng Đảng mừng Đông, mừng Đảng mừng Thu hay mừng Đảng mừng Hè? Mừng Đảng phải mừng cả năm chứ, chả nhẽ mấy mùa kia không có Đảng! Nếu vậy thì phải nói thế nào nhỉ? Có lẽ là “Mừng Đảng mừng Xuân – Mừng Dân mừng Hạ – Mừng (nhà) Nước mừng Thu” chăng? Ái chà, cũng rắc rối phết, còn anh Đông kia thì nhét cho ai, không lẽ ép thành “Mừng Bác mừng Đông” à! Láo!

Lại nữa, nói Mừng Đảng mừng Xuân là vì mùa Xuân giá trị hơn mấy mùa khác ư? Không có lý lắm, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng, mùa Thu Hà Nội chả đã đi vào thơ văn; nhạc; họa đấy sao? Mùa Hạ, mùa Đông cũng có…cái giá của mùa Đông mùa Hạ, thi sĩ Huyền Kiêu đã từng viết trong bài thơ Tình Sầu có đủ cả bốn mùa mơ màng lãng đãng như nhau:

Xuân hồng có chàng tới hỏi
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi tóc xõa ngang đầu
Đi bắt bướm vàng ngoài nội
Hạ đỏ vẫn chàng tới hỏi
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi hoa trắng cài đầu
Đi giặt tơ vàng bên suối
Thu xám cũng chàng tới hỏi
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát tình sầu trong núi
Đông xám lại chàng tới hỏi
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Đã ngủ trong lòng mộ tối

Lại nữa, trong lịch sử, bên cạnh những mùa Xuân rực rỡ chiến thắng như Xuân Kỷ Dậu 1789 Quang Trung đại thắng quân Thanh, thì cũng có những mùa Thu cách mạng 1945, mùa Đông toàn quốc kháng chiến 1946, mùa Hè đỏ lửa 1972 v…v…Tức là với lịch sử mùa nào cũng oách!

Nói tóm lại thì mùa nào cũng có bướm đẹp hoa thơm, tại sao cứ phải mừng Đảng mừng Xuân? Cái này chắc do cha nào chế ra câu này có…người yêu tên Xuân, mà đếch ai dám có ý kiến nên lâu dần thành thói quen tào lao!

Khai đao chém gió mùng 3 Tết Đinh Dậu 2017.

N.N